Tăng trưởng xanh trong nông nghiệp – Thực trang, giải pháp

Tăng trưởng xanh trong nông nghiệp – Thực trang, giải pháp

Sự tăng trưởng xanh trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn không những góp phần sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Nó làm thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng. Nó mang lại hiệu quả kinh tế cao. Và tạo thêm việc làm, nâng cao đời sống của người lao động

Về tăng trưởng xanh trong ngành nông nghiệp Việt Nam

Sử dụng đất nông nghiệp

Tại Việt Nam, diện tích đất nông nghiệp chiếm khoảng trên 27,3 triệu ha. Tương đương với 80,4% tổng diện tích Việt Nam. Đóng góp 24% GDP, sử dụng hơn 47% lực lượng lao động của quốc gia. Thực tế, tỷ lệ người đang sinh sống ở nông thôn và miền núi chiếm tới gần 70% dân số của Việt Nam. Giá trị thặng dư thương mại của ngành Nông nghiệp lên tới 10,6 tỷ USD. Với nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt giá trị trên 1 tỷ USD (lúa gạo, cà phê, cao su, điều, gỗ, thủy sản…).

Số liệu thống kê cho thấy, quỹ đất nông nghiệp được sử dụng cho nhiều loại hình như: sản xuất nông nghiệp với 11,530.2 nghìn ha. Đất trồng cây hàng năm là 6,998 nghìn ha. Đất lâm nghiệp là 14,923.6 nghìn ha… Diện tích đất của Việt Nam ta được tận dụng khá triệt để. Lượng đất bỏ hoang và chưa đưa vào sử dụng là rất thấp.

Diện tích đất sử dụng cho mục đích sản xuất nông nghiệp của Việt Nam tăng qua các năm. Từ năm 2005, Việt Nam bắt đầu xây dựng và triển khai mô hình nông nghiệp hữu cơ. Diện tích triển khai thí điểm là 6,5 nghìn ha.

Các năm tiếp theo, diện tích đất nông nghiệp hữu cơ tiếp tục tăng, nhưng không đồng đều. Năm 2006, diện tích đất nông nghiệp hữu cơ tăng lên tới 21,9 nghìn ha, gấp 3,37 lần năm 2005.

Quản lý đất canh tác nông nghiệp

tăng trưởng xanh

Bảng 2 cho thấy, hiện trạng quản lý đất nông nghiệp hiện nay là khá thấp. Chủ yếu là đất trồng rừng được quản lý và giám sát tương đối chặt chẽ. Có khoảng 22- 32% so với diện tích đất được đưa vào sử dụng. Chiếm mới có 1% đất sản xuất nông nghiệp được bàn giao quản lý. Mức độ quản lý đất nông nghiệp cũng chỉ ra rằng. Khả năng đồng bộ và thay đổi mô hình kinh tế nông nghiệp phát triển theo hướng tăng trưởng xanh còn gặp rất nhiều khó khăn và hạn chế.

Sử dụng thuốc bảo vệ thực vật

Hoạt động phân phối sử dụng thuốc bảo vệ thực vật trên thị trường nước ta đang trong tình trạng khó kiểm soát. Lợi nhuận khổng lồ từ việc buôn bán và kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật khiến các đại lý thuốc bỏ qua hậu quả của việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật bừa bãi. Ngoài ra, hiện trạng kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật chưa rõ chất lượng. Còn làm giả thương hiệu, nhái thương hiệu thuốc được duyệt đưa vào sử dụng còn phổ biến.

Theo Cục Bảo vệ thực vật, từ năm 2011 đến nay, hàng năm Việt Nam nhập và sử dụng từ 70.000 tấn đến 100.000 tấn thuốc bảo vệ thực vật. Trong đó, thuốc trừ sâu chiếm 20,4%, thuốc trừ bệnh chiếm 23,2%, thuốc trừ cỏ chiếm 44,4%, các loại thuốc bảo vệ thực vật khác chiếm 12%. Thuốc bảo vệ thực vật nhập vào nước ta chủ yếu là từ Trung Quốc, Ấn Độ, Đức, Singapo, Thái Lan, Nhật Bản… trong đó nhập khẩu từ Trung Quốc với 57,2% tổng kim ngạch, tăng 26,08% (tức 151,6 triệu USD). Ấn Độ với 14,5 triệu USD, tăng 5,77%…

Có thể thấy, hoạt động giám sát thuốc trừ sâu, phân bón và an toàn thực phẩm là một trong những điểm yếu của nền nông nghiệp Việt Nam. Chất lượng quản lý của toàn bộ chuỗi giá trị được chia làm 3 phân khúc riêng biệt gồm: Đầu vào nông nghiệp, sản phẩm nông nghiệp và phân phối sản phẩm ra thị trường. Hiện nay, có nhiều cơ quan chuyên trách để đánh giá và giám sát đối với từng phân khúc nhưng sự phối hợp và hợp tác giữa các cơ quan này là rất hạn chế.

Ứng dụng công nghệ kỹ thuật xanh trong nông nghiệp

Thời gian qua, đã có nhiều mô hình canh tác tiên tiến được thực hiện. Như ứng dụng các kỹ thuật và công nghệ, quy trình nuôi trồng quy chuẩn, thân thiện với môi trường. Và cho năng suất, chất lượng môi trường cao.

Chẳng hạn như mô hình sản xuất rau an toàn tại tỉnh Lâm Đồng (mô hình với diện tích 600 ha được sản xuất theo 2 dạng là công nghệ sản xuất cách ly trong nhà lưới không sử dụng phân bón, nông dược vô cơ; và cách ly trong nhà lưới có sử dụng  giới hạn nông dược vô cơ). Đã thu hút nhiều hộ nông dân tham gia sản xuất . Và ứng dụng công nghệ sinh học trong nhân giống và sản xuất hoa.

Hay tại tỉnh Vĩnh Phúc xây dựng mô hình trồng nấm sạch với  hơn 100 trang trại tham gia. Với sản lượng đạt 500 tạ/năm, mô hình 130 ha rau an toàn (với công thức 5 cấm trong rau sạch và 3 chỉ tiêu an toàn) cho sản lượng  25.000 tấn/năm. Ngoài ra, còn có các mô hình khác do một số doanh nghiệp đầu tư như mô hình sản xuất rau hoa công nghệ cao của Công ty Giống cây trồng Hà Nội, Trung tâm Phát triển Nông lâm nghiệp công nghệ cao Hải Phòng với hệ thống nhà kính, nhà lưới hiện đại từ công nghệ của Israel…

Tuy nhiên, thực tế cho thấy, dù nhiều địa phương đã áp dụng thành công các quy chuẩn về xây dựng mô hình nông nghiệp sạch, tăng trưởng xanh. Song quy mô còn nhỏ lẻ và rời rạc.

Một số giải pháp, khuyến nghị

Để vượt qua những rào cản khi thực hiện nông nghiệp theo hướng tăng trưởng xanh và nắm bắt cơ hội trong bối cảnh phát triển mới. Một đề xuất các giải pháp sau:

Thứ nhất, thay đổi nhận thức về nông nghiệp xanh.

Thứ hai, nhân rộng các mô hình nông nghiệp theo hướng tăng trưởng xanh.

Thứ ba, thúc đẩy liên kết nông dân – doanh nghiệp trong sản xuất nông nghiệp theo hướng tăng trưởng xanh.

Thứ tư, đẩy mạnh chương trình khuyến nông, sản xuất cây trồng an toàn theo quy trình VietGAP

Nguồn: tapchitaichinh.vn

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai.